Tăng huyết áp là một trong những bệnh tim mạch khá phổ biến hiện nay, đây cũng đang là vấn đề khá nhức nhối của xã hội bới những biến chứng của nó gây ra ảnh hưởng lớn tới sức khỏe, tàn phế và thậm chí là tử vong cho người bệnh, nhất là người cao tuổi. Tỷ lệ mắc bệnh tăng huyết áp ngày càng cao. Bệnh nếu tiến triển trong một thời gian dài sẽ dẫn đến những tổn hại cho mạch máu, từ đó gây tổn thương cho nhiều cơ quan đích trong cơ thể như tim, não, thận và cả võng mạc mắt.
Hình : Cao huyết áp gây nhiều tổn thương trên võng mạc
1.Rối loạn chức năng thành mạch
Hầu hết các hệ động mạch trong cơ thể thích nghi với tình trạng tăng huyết áp bằng cách phì đại hoặc tăng sản lớp cơ trơn thì hệ động mạch võng mạc lại khá đặc biệt khi chúng có cơ chế tự thích nghi riêng. Ở giai đoạn sớm của tăng huyết áp thì động mạch võng mạc đã thích nghi bằng cách tự co thắt và tăng trương lực cơ. Nó được kéo dài trong một thời gian nhất định cho đến khi xuất hiện sự đứt gãy liên kết nội mô và hoại tử thành động mạch nhất là vị trí tiền mao mạch.
Tổn thương khởi phát tại lớp nội mô liên kết có liên quan đến sự căng giãn thành mạch cộng với lớp áo cơ trơn xung quanh bị thoái hóa. Lớp nội mô bị giãn mỏng quá mức dẫn tới thủng. Hậu quả là huyết tương tràn vào bên trong thành mạch, chiếm chỗ của lớp cơ trơn thoái hóa mà gây ra tình trạng dày thành, hẹp lòng mạch. Lâu dần sẽ hình thành xơ cứng thứ phát.
Quá trình tổn thương động mạch võng mạc gồm
- Giai đoạn co thắt
- Thoái hóa cơ trơn
- Tổn thương khu trú lớp nội mô làm huyết tương thoát vào lòng mạch.
- Hoại tử thành mạch và tích tụ xuất tiết nội mạch làm thu hẹp lòng mạch.
2.Những thay đổi ngoại mạch
Tại võng mạc vào giai đoạn co thắt và tăng trương lực cơ võng mạc thì biểu hiện trên lâm sàng là co động mạch lan tỏa hoặc khu trú. Một loạt các thay đổi ngoại mạch là:
- Dày thành mạch
- Tăng sản thành mạch
- Biến đổi vị trí bắt chéo động – tĩnh mạch và ánh động mạch lan rộng.
- Xuất tiết, tăng tính thấm thành mạch.
- Hàng rào máu võng mạc bị phát vỡ, lớp cơ trơn và nội mô bị hoại tử làm thoát các thành phần hữu hình trong máu và gây thiếu máu cục bộ võng mạc.
3.Tăng huyết áp có thể gây nên những tổn thương nào cho võng mạc
Người bị tăng huyết áp cần kiểm soát huyết áp của mình ở trong mức giới hạn bình thường ổn định nhằm hạn chế tối đa các biến chứng có thể xảy ra trong đó có bệnh lý võng mạc của mắt. Khi có biến chứng về Bệnh lý võng mạc do tăng huyết áp sẽ có những tổn thương dưới đây:
- Co động mạch: Đây là đáp ứng sinh lý của cơ thể đối với tình trạng tăng huyết áp động mạch. Hiện tượng này có thể khu trú hoặc lan tỏa làm cho các động mạch bị cứng thẳng hay chia nhánh vuông góc tạo nên hình ảnh thưa thớt của hệ mạch võng mạc.
- Xơ cứng động mạch: Trong quá trình các sợi collagen trong mạch thoái hóa trở nên xơ cứng thì thành mạch sẽ bị dày lên và thu hẹp lòng mạch. Động mạch mất đi sự đàn hồi, bị hyaline hóa tạo nên hình ảnh sợi dây bạc.
- Bắt chéo động – tĩnh mạch: Vị trí bắt chéo của động tĩnh mạch được tạo bởi một bao xơ chun chung. Khi mà động mạch bị xơ cứng và dày lên sẽ đè đẩy, chèn ép tĩnh mạch tại vị trí bắt chéo trên.
- Xuất huyết võng mạc: Đặc điểm là những xuất huyết nông giống như hình ngọn nến nằm dọc theo các sợi thần kinh quanh những mạch máu lớn gần với đĩa thị. Hoặc cũng có thể tạo ra những xuất huyết sâu hơn.
- Xuất tiết bông: Còn gọi là xuất tiết mềm. Nó có hình ảnh những đám trắng bờ không rõ nằm nông che lấp các mạch máu hoặc chúng có thể nằm gần các mạch máu lớn.
- Xuất tiết cứng: Khác với xuất tiết bông, xuất tiết cứng là những đám màu vàng nằm sâu, có ranh giới rõ và thường nằm ở cực sau. Chúng có thể xếp cùng với nhau tạo thành hình nan hoa lan tỏa ra quanh hoàng điểm và tạo thành những sao hoàng điểm. Cũng có đôi khi chúng ta bắt gặp chúng tập trung lại tạo thành một đám thâm nhiễm lớn.
- Phù đĩa thị: Là hiện tượng đĩa thị bị mờ, ranh giới không rõ và hơi nhô lên có màu trắng. các tĩnh mạch thì bị giãn ngoằn ngoèo, cương tụ và kèm theo đó là tình trạng giãn mao mạch, đôi khi là có xuất huyết trước đĩa thị.
Các tổn thương mạch máu võng mạc do tăng huyết áp thường khó hồi phục, do đó điều quan trọng là kiểm soát huyết áp để làm chậm tiến triển của bệnh. Khi có các biểu hiện ở mắt thì cần theo chỉ định điều trị lâu dài của bác sĩ chuyên khoa. Các liệu pháp điều trị có thể là laser, dùng thuốc kháng viêm, tiêm thuốc vào nội nhãn.
Ths.Bs Nguyễn Thị Băng Sâm (Phó khoa Điều trị tổng hợp)