GIẢM THIỂU NGUY CƠ BỆNH VÕNG MẠC Ở TRẺ SINH NON

Bệnh võng mạc ở trẻ sinh non là một rối loạn mắt có thể gây mù, xuất hiện chủ yếu ở trẻ sơ sinh có cân nặng khoảng 1250 gram hoặc ít hơn được sinh ra trước tuần 31 của thai kỳ (thai kỳ đầy đủ là 38-42 tuần). Em bé mới sinh ra càng nhỏ thì càng có nhiều khả năng bị bệnh võng mạc ở trẻ sinh non. Rối loạn này thường xuất hiện ở cả hai mắt, là một trong những nguyên nhân phổ biến nhất của tình trạng mất thị giác trong thời thơ ấu và có thể dẫn đến suy giảm thị lực lâu dài và mù

Nguy cơ mắc phải

Ngày nay, với những tiến bộ trong việc chăm sóc trẻ sơ sinh, nhiều trẻ sơ sinh nhẹ cân được cứu sống. Những trẻ sơ sinh này có nguy cơ cao bị bệnh võng mạc ở trẻ sinh non nhưng không phải tất cả trẻ sinh non đều mắc bệnh. Có khoảng 3,9 triệu trẻ sơ sinh ra đời mỗi năm, trong đó khoảng 28.000 trẻ cân nặng khoảng 1250 gram hoặc ít hơn. Khoảng 14.000-16.000 những trẻ sơ sinh này bị bệnh võng mạc ở trẻ sinh non với các mức độ khác nhau. Bệnh cải thiện và không để lại thiệt hại lâu dài trong các trường hợp bệnh võng mạc ở trẻ sinh non thể nhẹ. Khoảng 90% bệnh võng mạc ở trẻ sinh non thuộc thể nhẹ và không cần điều trị. Tuy nhiên, trẻ sơ sinh bị thể nặng có thể suy giảm thị lực hoặc thậm chí mù. Khoảng 1.100-1.500 trẻ sơ sinh hàng năm bị bệnh võng mạc ở trẻ sinh non thể nghiêm trọng cần phải điều trị.

Những yếu tố nào làm tăng nguy cơ mắc bệnh võng mạc ở trẻ sinh non : Ngoài trọng lượng sinh và tuổi thai lúc sinh, các yếu tố khác góp phần vào nguy cơ mắc bệnh võng mạc ở trẻ sinh non bao gồm thiếu máu, truyền máu, suy hô hấp, thở khó khăn cần dùng oxy cao áp và sức khỏe tổng thể của trẻ sơ sinh.

Ảnh : Một số kiểu bất thường của khối dịch kính – võng mạc trẻ sinh non

Những kỹ thuật y tế nào dùng để chẩn đoán bệnh võng mạc ở trẻ sinh non?

Tất cả trẻ sinh non có trọng lượng sinh ít hơn 1500 g và tuổi thai dưới 30 tuần được kiểm tra thường xuyên để phát hiện bệnh võng mạc trẻ sinh non. Những trẻ sinh non sẽ được khám lần đầu lúc 4-6 tuần sau khi sinh. Bác sĩ chuyên khoa mắt sẽ nhỏ mắt để làm giãn đồng tử, giúp nhìn rõ hơn bên trong mắt.

Tùy thuộc vào số lượng mạch máu phát triển bất thường, tình trạng của bé sẽ được xác định và khám bổ sung sẽ được tiến hành mỗi một đến hai tuần, tùy thuộc vào nhiều yếu tố. Những yếu tố này bao gồm độ nặng và vị trí bị bệnh võng mạc ở trẻ sinh non, tốc độ hình thành mạch máu, gọi là sự tạo mạch. Trong đa số trường hợp, ngay cả khi bị bệnh võng mạc ở trẻ sinh non hình thành, nó sẽ biến mất dần và chỉ ảnh hưởng rất ít đến thị lực. Tuy nhiên, một tỷ lệ nhỏ trẻ em mắc bệnh võng mạc, xấp xỉ 10%, sẽ tiến triển đến mức mà bác sĩ không thể chờ cho bệnh tự khỏi mà phải điều trị để đảo ngược tiến trình bệnh.

Những phương pháp nào dùng để điều trị bệnh võng mạc ở trẻ sinh non?

Phương pháp điều trị đã được chứng minh hiệu quả nhất cho bệnh võng mạc ở trẻ sinh non là điều trị bằng laser hoặc quang đông. Laser trị liệu “phá hủy’ ngoại vi của võng mạc, nơi không có mạch máu bình thường. Với phẫu quang đông, các bác sĩ sử dụng một công cụ làm đóng băng các điểm trên bề mặt của mắt nằm ở vùng ngoại vi võng mạc. Cả điều trị bằng laser và phẫu đông lạnh đều phá hủy các khu vực ngoại vi của võng mạc, làm chậm hoặc đảo ngược sự tăng trưởng bất thường của mạch máu.

Cả điều trị laser và quang đông đều chỉ được thực hiện trên trẻ sơ sinh bị bệnh võng mạc tiến triển, đặc biệt là giai đoạn III.

Bệnh viện Mắt Phú Yên phối hợp với Bệnh viện Sản Nhi Đắk Lắk thực hiện tầm soát bệnh võng mạc cho các bé sinh non theo lịch đăng ký tại Bệnh viện Sản nhi. Các bà mẹ có con sinh non đến Bệnh viện Sản nhi đăng ký trước để được khám mắt sớm.